Thứ 7, ngày 27 tháng 4 năm 2024
Hinh Anh
Hinh Anh
Hinh Anh
Hinh Anh
Hinh Anh
Hinh Anh
Hinh Anh
Hinh Anh
Hinh Anh
Hinh Anh
Hinh Anh
Hinh Anh
Hinh Anh
Hinh Anh
Hinh Anh
Hinh Anh
Hinh Anh
Hinh Anh
HƯỚNG DẪN NGHIỆP VỤ GDPL
SỔ TAY HƯỚNG DẪN XÂY DỰNG XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN ĐẠT CHUẨN TIẾP CẬN PHÁP LUẬT
4/10/2020 12:00:00 AM     

Phần I

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÂY DỰNG

XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN ĐẠT CHUẨN TIẾP CẬN PHÁP LUẬT

 

I. CHỦ TRƯƠNG, QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VỀ TIẾP CẬN PHÁP LUẬT VÀ XÂY DỰNG XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN ĐẠT CHUẨN TIẾP CẬN PHÁP LUẬT

Trong những năm qua, cùng với quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, công tác tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống luôn được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Quyền của công dân về tiếp cận thông tin, trong đó có tiếp cận thông tin pháp luật luôn được thể chế hóa trong nhiều văn kiện, văn bản pháp luật được ban hành thời gian qua. Chỉ thị số 32/CT-TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp pháp luật cho cán bộ, nhân dân đã chỉ rõ:“công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong việc tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật…, cần được tăng cường thường xuyên, liên tục và ở tầm cao hơn, nhằm làm cho cán bộ và nhân dân hiểu biết và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, thông qua đó mà kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật”. Chỉ thị cũng nhấn mạnh các cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, các ngành cần“xác định phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Tại Kết luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011 về kết quả thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW, Ban Bí thư Trung ương Đảng đề ra phương hướng và nhiệm vụ của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong thời gian tới, đó là“tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức và ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật của toàn thể cán bộ và nhân dân”. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra nhiệm vụ“đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; không người nâng cao trình độ dân trí pháp lý, ý thức sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật cho mọi người dân”.

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đã xác định rõ: “Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật…”; “Trong những năm tới, đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa[1]. Đồng thời, Đảng ta chủ trương: “Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân”; “tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở; hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân[2].

Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ (Điều 8); “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình…” (Điều 25).

Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, thực hiện chủ trương của Đảng, Quốc hội đã ban hành nhiều luật để ghi nhận, bảo đảm quyền được thông tin pháp luật, quyền được tiếp cận và sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, hỗ trợ, giúp đỡ công dân thực hiện các quyền, nghĩa vụ, tham gia quản lý nhà nước và xã hội, đồng thời quy định về nội dung, cách thức, hình thức, biện pháp đảm bảo, thực hiện việc tiếp cận thông tin pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật. Luật phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012, Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, Luật tiếp cận thông tin năm 2016, Luật báo chí năm 2016, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn… đều xác định quan điểm tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật; tăng cường tiếp cận thông tin; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Ngoài ra, thời gian qua Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng các Bộ, ngành cũng ban hành nhiều văn bản theo thẩm quyền để quy định, phê duyệt các chương trình, đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật[3]. Đây là những chính sách, cơ chế đảm bảo thực hiện, tạo điều kiện cho công dân tiếp cận thông tin, pháp luật. Qua đó, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, xây dựng xã hội lành mạnh, văn minh, sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật; nâng cao hiệu quả hòa giải ở cơ sở, giải quyết kịp thời các mâu thuẫn tại cộng đồng, góp phần ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; phát huy dân chủ ở cơ sở; thông qua hoạt động đối thoại, góp ý kiến xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật tăng cường sự tham gia của người dân trong quản lý nhà nước và quản lý xã hội …

Không chỉ là quyền của công dân đã được Hiến pháp khẳng định và được thể chế hóa ở nhiều luật, văn bản dưới luật của các cơ quan Nhà nước, tiếp cận pháp luật nói chung và tiếp cận thông tin pháp luật nói riêng còn là tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện các nhiệm vụ theo thẩm quyền của chính quyền các cấp ở địa phương thông qua việc công nhận địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật. Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg ngày 24/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở (sau đây gọi là Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg) là cơ sở pháp lý để thực hiện đánh giá, công nhận địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật. Có 8 tiêu chí và 41 chỉ tiêu là công cụ đánh giá cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Qua chấm điểm các tiêu chí, chỉ tiêu này là cơ sở để đánh giá kết quả, chất lượng thực hiện nhiệm vụ trong các lĩnh vực quản lý nêu trên của địa phương; từ đó công nhận, suy tôn địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, góp phần tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước của các cấp địa phương, nhất là ở cơ sở.

II. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA, VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA XÂY DỰNG XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN ĐẠT CHUẨN TIẾP CẬN PHÁP LUẬT

1. Mục đích, ý nghĩa

Từ thực tiễn triển khai đánh giá, công nhận, xây dựng xã, phường, thị trấn (cấp xã) đạt chuẩn tiếp cận pháp luật trong thời gian qua cho thấy, đây là nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng đối với công tác quản lý nhà nước, nhất là tại cơ sở trong khi Đảng, Nhà nước đang chủ trương xây dựng Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động và nền hành chính hiện đại, phục vụ Nhân dân.

Có thể nhận thấy mục đích và ý nghĩa của việc xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật ở một số điểm như sau:

a) Nâng cao nhận thức pháp luật, giáo dục ý thức tôn trọng, tuân thủ và chấp hành pháp luật; bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quyền được thông tin về pháp luật; kịp thời tháo gỡ mâu thuẫn, tranh chấp, vướng mắc, kiến nghị trong thi hành pháp luật trên địa bàn cấp xã.

b) Tổ chức và bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thi hành Hiến pháp, pháp luật, quản lý nhà nước và xã hội bằng pháp luật. Qua việc tổ chức đánh giá, công nhận và xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật năm bắt thực trạng, đề xuất giải pháp khắc phục hạn chế, tồn tại trong quản lý, tổ chức thực hiện các tiêu chí và chỉ tiêu tiếp cận pháp luật. Kết quả chấm điểm, đánh giá các tiêu chí tiếp cận pháp luật chính là kết quả việc thực hiện nhiệm vụ của cấp xã trên các lĩnh vực: Bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật; thực hiện thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền; phổ biến, giáo dục pháp luật; hòa giải ở cơ sở và thực hiện dân chủ ở cơ sở. Từ đó, nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức cấp xã trong thực thi công vụ.

c) Cải thiện điều kiện tiếp cận thông tin pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải ở cơ sở, giải quyết thủ tục hành chính, phát huy dân chủ ở cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Hiến pháp năm 2013 quy định: công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với các cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân.

d) Là một nội dung thành phần trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 – 2020[4] (Đánh giá, công nhận, xây dựng xã tiếp cận pháp luật; bảo đảm và tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật cho người dân) và là tiêu chí thành phần của Bộ Tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới[5] (Tiêu chí 18.5: Xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật theo quy định), việc xây dựng xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật sẽ góp phần góp phần xây dựng nông thôn mới, cải thiện, nâng cao chất lượng đời sống văn hóa pháp lý của người dân khu vực nông thôn.

2. Vị trí, vai trò

Nhiệm vụ xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật có vị trí, vai trò quan trọng đối với quản lý nhà nước, quản lý xã hội, trong đó có xây dựng nông thôn mới.

Trước hết, đối với quản lý nhà nước và chỉ đạo triển khai nhiệm vụ của cơ sở, xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật có tác động trực tiếp đến hoạt động của chính quyền các cấp, nhất là cấp xã. Việc đánh giá, công nhận xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật sẽ giúp chính quyền cấp xã thấy được những tồn tại, hạn chế trong chỉ đạo, điều hành, triển khai các nhiệm vụ chuyên môn để có giải pháp khắc phục, thực hiện đạt kết quả tốt hơn. Qua đánh giá, công nhận, xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật còn góp phần tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước, thực thi nhiệm vụ chuyên môn của chính quyền cấp xã; nâng cao ý thức trách nhiệm, hiệu quả thực thi công vụ của cán bộ,công chức cấp xã; đồng thời đề xuất, kiến nghị hoàn thiện thể chế, chính sách về xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, cũng như công tác thi hành pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật.

Đối với quản lý xã hội, nội dung của các tiêu chí, chỉ tiêu tiếp cận pháp luật đều có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Việc chấm điểm, đánh giá kết quả thực hiện các tiêu chí, chỉ tiêu chính là chấm điểm, đánh giá kết quả thực hiện các nhiệm vụ thuộc thẩm quyền và phạm vi của chính quyền và cán bộ, công chức cấp xã (có nhiệm vụ mang tính quản lý, có nhiệm vụ tổ chức thực hiện trực tiếp…). Qua thực hiện các tiêu chí tiếp cận pháp luật và xây dựng, đánh giá xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, các tổ chức, cá nhân sẽ được bảo đảm thực hiện quyền của mình, nhất là các nhóm quyền như: Bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội; thực hiện đúng pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo; quyền tiếp cận thông tin pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật; bảo đảm giải quyết thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền của cấp xã đúng quy định; được giải quyết các tranh chấp, mẫu thuẫn thông qua hòa giải ở cơ sở; tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội và phát huy dân chủ ở cơ sở…

Việc bổ sung “xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật” là tiêu chí thành phần của Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016-2020 đã khẳng định rõ vị trí, vai trò quan trọng của nhiệm vụ này nói riêng và pháp luật nói chung trong xây dựng nông thôn mới và thực hiện chủ trương “Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn…xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao…” của Đảng và Nhà nước ta[6]; giữ vững mục tiêu bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội khu vực nông thôn, đồng thời có biện pháp hạn chế tiêu cực, tệ nạn xã hội; giải quyết có hiệu quả, kịp thời các mâu thuẫn, tranh chấp trên địa bàn dân cư.

III. MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG THỰC TIỄN XÂY DỰNG CẤP XÃ ĐẠT CHUẨN TIẾP CẬN PHÁP LUẬT

Một là, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, kịp thời của cấp uỷ Đảng, sự chủ động trong hướng dẫn và tổ chức thực hiện việc đánh giá, công nhận, xây dựng cấp xã đạt chuẩn TCPL của các Bộ, ngành, địa phương là yếu tố quan trọng cho thành công của nhiệm vụ này.

Hai là, cần chú trọng công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách về xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật; nghiên cứu lý luận, sơ kết, tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm, kịp thời phát hiện những bất cập trong thẻ chế, chính sách để đề xuất việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, bảo đảm thực hiện có hiệu lực, hiệu quả.

Ba là, tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện; động viên, khen thưởng kịp thời đối với những tập thể được công nhận đạt chuẩn tiếp cận pháp luật và tập thể, cá nhân có thành tích trong xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật; phát hiện các mô hình, cách làm hiệu quả trong thực tiễn để rút kinh nghiệm, nhân ra diện rộng.

Bốn là, tăng cường tính chủ động của cơ quan Tư pháp các cấp; sự phối hợp của các Bộ, ngành, địa phương; phát huy vai trò của Hội đồng đánh giá tiếp cận pháp luật trong tư vấn, tham mưu việc đánh giá, công nhận, xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, bảo đảm việc đánh giá, công nhận khách quan, đúng pháp luật; kịp thời khắc phục những khó khăn trong thực hiện những tiêu chí chưa đạt được.

Năm là, bảo đảm nguồn lực cán bộ, kinh phí cho việc thực hiện hoạt động theo dõi, đánh giá, công nhận, xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, đồng thời tăng cường năng lực, tập huấn kỹ năng cho đội ngũ công chức được giao theo dõi, tham mưu thực hiện nhiệm vụ này. Chú trọng gắn kết việc đánh giá, công nhận, xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật với đánh giá xã đạt chuẩn nông thôn mới và phường, thị trấn đạt chuẩn đô thị văn minh; đảng bộ, chính quyền cấp xã đạt tiêu chuẩn “trong sạch, vững mạnh”; là tiêu chí đánh giá thi đua, khen thưởng hằng năm của chính quyền cấp xã.

IV. HOÀN THIỆN THỂ CHẾ VỀ XÂY DỰNG CẤP XÃ ĐẠT CHUẨN TIẾP CẬN PHÁP LUẬT

1. Sự cần thiết ban hành Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy định về xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật

1.1. Cơ sở thực tiễn

Sau 03 năm thực hiện Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg ngày 24/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy định về chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở (viết tắt là Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg) và 02 năm triển khai làm thử đánh giá, công nhận địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật tại tỉnh Cà Mau, Điện Biên, Thái Bình, Quảng Bình và Thành phố Hồ Chí Minh (viết tắt là các địa phương làm thử) đã đạt được những kết quả quan trọng. Bộ Tư pháp, chính quyền địa phương các cấp đã chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức triển khai nhiệm vụ xây dựng địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật; bổ sung nhiệm vụ này trong Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV ngày 22/12/2014 của Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp cũng như Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp; bổ sung các nội dung chi, mức chi về tiếp cận pháp luật trong Nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

Bộ Tư pháp đã biên soạn tài liệu, tổ chức tập huấn nghiệp vụ xây dựng địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật cho lãnh đạo, công chức trực tiếp được giao triển khai nhiệm vụ này; quán triệt, phổ biến về vị trí, vai trò và nội dung của Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg bằng nhiều hình thức. Bộ Tư pháp và 5 địa phương làm thử đã tổ chức đánh giá, công nhận địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật; tổ chức kiểm tra, khảo sát, tọa đàm, tổng kết việc thực hiện. Kết quả cho thấy, Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg ban hành là thực sự cần thiết, dù mới triển khai thực hiện nhưng đã góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước ở cơ sở, tăng cường trách nhiệm của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ, đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính, phát huy dân chủ ở cơ sở, nhất là tại các địa phương làm thử. Chính vì vậy, theo đề xuất của Bộ Tư pháp, Thủ tướng Chính phủ đã bổ sung nhiệm vụ đánh giá, công nhận, xây dựng xã tiếp cận pháp luật trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020 (ban hành kèm theo Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ).

Về kết quả đánh giá, công nhận đạt chuẩn tiếp cận pháp luật năm 2014 và 2015 tại các tỉnh, thành phố triển khai làm thử: (1) Tỉnh Cà Mau: năm 2014 có 61/101 cấp xã và 4/9 cấp huyện đạt chuẩn; năm 2015 có 87/101 cấp xã, 7/9 cấp huyện đạt chuẩn; 09 cấp xã và 01 cấp huyện đạt tiêu biểu; (2) Tỉnh Điện Biên: năm 2014 có 39/130 cấp xã và 3/10 cấp huyện đạt chuẩn; năm 2015 có 48/130 cấp xã và 3/10 cấp huyện đạt chuẩn; 08 cấp xã đạt tiêu biểu; (3)Tỉnh Thái Bình: năm 2014 và năm 2015 đều có 115/286 cấp xã và 1/8 cấp huyện đạt chuẩn; 16 cấp xã và 01 cấp huyện đạt tiêu biểu; (4)Tỉnh Quảng Bình: năm 2014 có 64/159 cấp xã và 1/8 cấp huyện đạt chuẩn; năm 2015 có 108/159 cấp xã và 3/8 cấp huyện đạt chuẩn; 08 cấp xã đạt tiêu biểu; (5) TP. Hồ Chí Minh: năm 2015 có 315/319 đơn vị cấp xã và 24/24 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn.

Sau 02 triển khai làm thử, năm 2016 một số địa phương vẫn tiếp tục triển khai rà soát, đánh giá với mục đích duy trì kết quả đạt chuẩn, khắc phục hạn chế của các tiêu chí, chỉ tiêu tiếp cận pháp luật. Ngoài ra, một số địa phương khác cũng chủ động triển khai làm thử việc đánh giá, công nhận địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật như Long An, Hà Nam… hoặc hằng năm đều tiến hành rà soát, đánh giá mức độ đạt được của các tiêu chí tiếp cận pháp luật, qua đó đánh giá tình hình và thực trạng triển khai các nhiệm vụ đã được thể chế trong các tiêu chí, chỉ tiêu đó để có giải pháp thực hiện cho phù hợp với thực tế.

Bên cạnh kết quả đạt được, thực tiễn thực hiện Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg cho thấy vẫn còn một số tồn tại, hạn chế, cụ thể như sau:

Thứ nhất, một số quy định trong Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg, đặc biệt là nội dung của các tiêu chí tiếp cận pháp luật, quy trình, thời hạn đánh giá, công nhận địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật còn chưa phù hợp, khả thi. Thẩm quyền đánh giá, công nhận cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật còn phức tạp, nhiều chủ thể tham gia, dễ dẫn đến tình trạng dồn việc cho cấp trên. Thời gian đánh giá chưa phù hợp, chưa thống nhất với mốc thống kê, báo cáo kết quả theo năm kinh tế - xã hội; chưa gắn kết trong tổng thể các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh của địa phương, trong đó có xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh.

Thứ hai, cơ chế đánh giá, công nhận đạt chuẩn tiếp cận pháp luật ở cả ba cấp tỉnh, huyện, xã rất phức tạp, chưa huy động, bảo đảm sự tham gia, giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội…

Thứ ba, nhiệm vụ xây dựng địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật mặc dù đã được xác định là nhiệm vụ của các bộ, ngành, địa phương, nhất là bộ, ngành có chức năng, phạm vi quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện các tiêu chí theo Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg, nhưng thực tế, các bộ, ngành chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình, chưa chủ động phối hợp với Bộ Tư pháp để tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao. Chỉ có một số ít các địa phương không thuộc diện làm thử triển khai nhiệm vụ này. Việc đề xuất và tổ chức thực hiện các giải pháp sau mỗi kỳ đánh giá chưa được địa phương quan tâm, coi trọng.

Thứ tư, nhiều địa phương chưa chuẩn bị nguồn lực để thực hiện nhiệm vụ xây dựng địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật. Tại các địa phương triển khai làm thử chưa bố trí thêm biên chế, kinh phí thực hiện mà kinh phí chủ yếu được trích từ nguồn kinh phí thường xuyên của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.

Thứ năm, với phạm vi triển khai làm thử ở một số ít địa phương và thực hiện trong thời gian ngắn dẫn đến chưa đánh giá một cách toàn diện nhiệm vụ xây dựng địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật. Hiệu quả so với yêu cầu chưa cao, có nơi, có lúc còn hình thức, thiếu thực chất.

Tồn tại, hạn chế trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Ngoài những nguyên nhân do một số bộ, ngành, cấp ủy, chính quyền địa phương chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao; công tác chỉ đạo chưa sát sao…, còn có một nguyên nhân quan trọng từ sự chưa hoàn thiện của thể chế về xây dựng địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật. Một số nội dung trong Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg chưa thống nhất, cập nhật với chính sách, quy định mới trong Hiến pháp năm 2013 và các luật có liên quan trực tiếp đến các tiêu chí tiếp cận pháp luật (như: Luật phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012, Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013, Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, Luật tiếp cận thông tin năm 2016…). Một số tiêu chí tiếp cận pháp luật còn quá rộng, nội hàm chưa rõ; có chỉ tiêu đến nay đã lạc hậu, nặng về định tính, không còn phù hợp với thực tiễn hoặc không rõ mục tiêu cụ thể để các địa phương tiếp tục phấn đấu đạt được. Giữa các quy định về thời gian khen thưởng địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật với quy định của pháp luật về thi đua - khen thưởng chưa đồng bộ, còn có mâu thuẫn. Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg chưa quy định việc đánh giá sự hài lòng của người dân, tổ chức về thực hiện nhiệm vụ công vụ của cán bộ, công chức nên dễ nảy sinh tình trạng chưa khách quan, thiếu minh bạch trong đánh giá.

1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đã xác định rõ: “Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật…” [7]. Đồng thời, Đảng ta chủ trương: “Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân”; “tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở; hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân[8].

Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ (Điều 8); công dân có quyền tiếp cận thông tin (Điều 25). Luật phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012, Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, Luật tiếp cận thông tin năm 2016 đều xác định quan điểm tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật; tăng cường tiếp cận thông tin; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Để thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng và nguyên tắc Hiến định này, cần phải hoàn thiện thể chế về tiếp cận pháp luật. Chương trình công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ năm 2016 đã giao Bộ Tư pháp chủ trì xây dựng Quyết định của Thủ tướng Chính phủ thay thế Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg. Tại Công văn số 6135/VPCP-PL ngày 25/7/2016 của Văn phòng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ Trương Hòa Bình đã giao “Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, ban hành Quyết định thay thế Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg”. Ngày 16/8/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1600/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 – 2020, trong đó, tại nội dung thành phần thứ 9, Quyết định đã giao Bộ Tư pháp “Chủ trì, hướng dẫn việc đánh giá, công nhận, xây dựng xã tiếp cận pháp luật; bảo đảm và tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật cho người dân”.

Bên cạnh đó, việc hoàn thiện thể chế về xây dựng địa phương tiếp cận pháp luật còn nhằm thể chế hóa và thực thi Chương trình Nghị sự toàn cầu về phát triển đến năm 2030 của Liên hiệp quốc. Chương trình đã xác định cần: “đảm bảo tiếp cận rộng rãi thông tin (trong đó có thông tin pháp luật) và bảo vệ các quyền tự do cơ bản, phù hợp với luật pháp quốc gia và các hiệp định quốc tế” (mục tiêu thứ 16).

Như vậy, việc nghiên cứu, tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định về xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật (thay thế Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg) có đủ cơ sở chính trị - pháp lý và cơ sở thực tiễn như đã phân tích trên đây. Quyết định được ban hành không chỉ tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ, hiệu quả triển khai nhiệm vụ xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật; nâng cao trách nhiệm, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật ở cơ sở; nâng cao nhận thức pháp luật, ý thức chấp hành, tuân thủ pháp luật của người dân mà còn bảo đảm quyền con người, quyền công dân theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Hiến pháp năm 2013 và cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Ngày 08/5/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 619/QĐ-TTg ban hành Quy định về xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật (Quyết định số 619/QĐ-TTg) và Quyết định số 14/2017/QĐ-TTg bãi bỏ Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg. Các quyết định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 08/5/2017.

2. Quan điểm chỉ đạo trong xây dựng và triển khai Quy định về xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật

2.1. Quán triệt và thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quan điểm của Hiến pháp năm 2013, các luật có liên quan đến quyền con người, quyền công dân; xây dựng chính quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh toàn diện, gắn với xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, hiện đại; đặt trong tổng thể chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ quốc phòng, an ninh.

2.2. Kế thừa các quy định còn phù hợp của Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg; khắc phục tồn tại, hạn chế đã được nhận diện từ thực tiễn triển khai làm thử; bổ sung những quy định mới cho phù hợp với thực tiễn và thực sự chín muồi.

2.3. Huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị, mọi nguồn lực trong xã hội tham gia xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật; lấy người dân làm trung tâm; bảo đảm thiết thực, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm.

3. Tổng quan nội dung của Quy định về xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật

Ngày 08/5/2017, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 619/QĐ-TTg ban hành Quy định về xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật và có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký. Đối với xã, nhiệm vụ này sẽ được triển khai gắn kết với xây dựng nông thôn mới do tiêu chí xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật là một tiêu chí thành phần của Bộ Tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới (tiêu chí thành phần 18.5 thuộc Tiêu chí 18 về Hệ thống chính trị và tiếp cận pháp luật).

Quy định về xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật gồm có 10 điều: Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng (Điều 1); Mục tiêu (Điều 2); Nguyên tắc thực hiện (Điều 3); Nội dung xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật (Điều 4); Các tiêu chí tiếp cận pháp luật (Điều 5); Điều kiện, thẩm quyền công nhận cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật (Điều 6); Quy trình đánh giá, công nhận cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật (Điều 7); Niêm yết kết quả đánh giá, công bố cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật (Điều 8); Kinh phí xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật (Điều 9); Tổ chức thực hiện (Điều 10).

3.1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng

a) Phạm vi điều chỉnh

Văn bản này quy định về xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, bao gồm các tiêu chí tiếp cận pháp luật, nội dung xây dựng, thẩm quyền, quy trình và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật.

b) Đối tượng áp dụng

- Xã, phường, thị trấn (cấp xã): Đây vừa là đối tượng đánh giá (thông qua việc tự đánh giá và việc xem xét, công nhận đạt chuẩn tiếp cận pháp luật của cơ quan có thẩm quyền), vừa là chủ thể có nhiệm vụ xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật (thông qua chỉ đạo, quản lý, thực hiện các hoạt động đã được xác định thành nội dung của các chỉ tiêu, tiêu chí tiếp cận pháp luật).

- Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật: Đây là những chủ thể tham gia chỉ đạo, quản lý như: Bộ Tư pháp, các bộ, ngành liên quan, Ủy ban nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân  các cấp, công chức Tư pháp – Hộ tịch, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức thành viên của Mặt trận các cấp…; tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật theo chính sách xã hội hóa, huy động nguồn lực xã hội trong triển khai thực hiện nhiệm vụ.

3.2. Mục tiêu xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật

Nhiệm vụ xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật được triển khai thực hiện nhằm các mục tiêu sau:

a) Nâng cao nhận thức pháp luật, giáo dục ý thức tôn trọng, tuân thủ và chấp hành pháp luật; bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quyền được thông tin về pháp luật; kịp thời tháo gỡ mâu thuẫn, tranh chấp, vướng mắc, kiến nghị trong thi hành pháp luật trên địa bàn cấp xã.

b) Tổ chức và bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thi hành Hiến pháp, pháp luật, quản lý nhà nước và xã hội bằng pháp luật; nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức cấp xã trong thực thi công vụ.

c) Cải thiện điều kiện tiếp cận thông tin pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải ở cơ sở, giải quyết thủ tục hành chính, phát huy dân chủ ở cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Ngoài ra, trong tổng thể các hoạt động xây dựng nông thôn mới, việc xây dựng xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật còn góp phần thúc đẩy, thực hiện toàn diện mục tiêu xây dựng nông thôn mới, cụ thể là xây dựng xã hội nông thôn dân chủ, bình đẳng, ổn định, an ninh, trật tự được giữ vững; bảo đảm và tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật cho người dân.

3.3. Nguyên tắc thực hiện

Việc triển khai xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật phải đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc sau:

a) Bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, minh bạch.

b) Xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị, gắn với thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh của địa phương.

c) Kết quả xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật là tiêu chí đánh giá xã đạt chuẩn nông thôn mới và phường, thị trấn đạt chuẩn đô thị văn minh; đảng bộ, chính quyền cấp xã đạt tiêu chuẩn “trong sạch, vững mạnh”; là tiêu chí đánh giá thi đua, khen thưởng hằng năm của chính quyền cấp xã.

3.4. Nội dung xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật

Nội dung xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật bao gồm:

a) Xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật; kế hoạch triển khai, thực hiện nhiệm vụ xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật.

b) Tuyên truyền, phổ biến nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, công chức, chính quyền các cấp và cơ quan, tổ chức, cá nhân về vị trí, vai trò, ý nghĩa của xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật.

c) Rà soát, đánh giá việc thực hiện tiêu chí tiếp cận pháp luật; công nhận cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật; đề ra giải pháp khắc phục tồn tại, hạn chế, cải thiện khả năng tiếp cận pháp luật cho người dân tại cơ sở.

d) Chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ, tổ chức bồi dưỡng, tập huấn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật.

đ) Lồng ghép xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật trong chương trình, chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh và xóa đói, giảm nghèo.

e) Sơ kết, tổng kết, thống kê, báo cáo, theo dõi kết quả, kiểm tra, khen thưởng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật.

3.5. Các tiêu chí tiếp cận pháp luật

Quy định có 05 tiêu chí tiếp cận pháp luật, 25 chỉ tiêu với tổng số 100 điểm, gồm: (1) Tiêu chí 1. Bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật (15 điểm); (2) Tiêu chí 2. Thực hiện thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp xã (30 điểm); (3) Tiêu chí 3. Phổ biến, giáo dục pháp luật (25 điểm); (4) Tiêu chí 4. Hòa giải ở cơ sở (10 điểm) và (5) Tiêu chí 5. Thực hiện dân chủ ở cơ sở (20 điểm).

3.6. Điều kiện công nhận cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật

 Để được công nhận đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, cấp xã phải đáp ứng đủ các điều kiện: (1) Không có tiêu chí nào dưới 50% số điểm tối đa; (2) Tổng số điểm của các tiêu chí tiếp cận pháp luật phải đạt từ 90% số điểm tối đa trở lên đối với cấp xã loại I, từ 80% số điểm tối đa trở lên đối với cấp xã loại II và từ 70% số điểm tối đa trở lên đối với cấp xã loại III; (3) Kết quả đánh giá sự hài lòng của tổ chức, cá nhân đạt từ 80% tổng số điểm tối đa trở lên; (4) Trong năm không có cán bộ, công chức cấp xã bị xử lý kỷ luật bằng hình thức từ cảnh cáo trở lên do vi phạm pháp luật trong thực thi công vụ hoặc phải bồi thường thiệt hại do hành vi công vụ trái pháp luật gây ra.

3.7. Thẩm quyền công nhận cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền xét, công nhận cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật; thành lập Hội đồng đánh giá tiếp cận pháp luật để tư vấn việc đánh giá, công nhận, xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật.

Việc rà soát, đánh giá, chấm điểm, công nhận cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật được tiến hành hằng năm, tính từ ngày 01 tháng 01 đến hết ngày 31 tháng 12.

3.8. Quy trình đánh giá, công nhận cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật được hướng dẫn cụ thể tại Phần II (Hướng dẫn nghiệp vụ xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật).

3.9. Tổ chức thực hiện

Quy định giao Bộ Tư pháp trách nhiệm tham mưu, giúp Thủ tướng Chính phủ triển khai xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao chỉ đạo, hướng dẫn, theo dõi, thống kê, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các tiêu chí, chỉ tiêu tiếp cận pháp luật liên quan đến phạm vi quản lý. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật cho thành viên, hội viên; giám sát, phản biện xã hội, vận động thành viên, hội viên tham gia xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật; giám sát kết quả đánh giá sự hài lòng của tổ chức, cá nhân khi thực hiện các thủ tục hành chính; phối hợp với cơ quan tư pháp cùng cấp và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong thực hiện Quy định.

Ủy ban nhân dân các cấp chỉ đạo, hướng dẫn triển khai xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật tại địa phương, phân công cơ quan chuyên môn và công chức làm đầu mối theo dõi, tham mưu thực hiện; bảo đảm kinh phí thực hiện nhiệm vụ xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật; định kỳ, đột xuất báo cáo kết quả với cơ quan có thẩm quyền.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện các nhiệm vụ được giao tại Quy định. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã chỉ đạo, hướng dẫn công chức chuyên môn triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao; chỉ đạo Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả việc xử lý, tổng hợp kết quả đánh giá sự hài lòng của tổ chức, cá nhân thực hiện thủ tục hành chính.

Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, công chức Tư pháp - Hộ tịch là đầu mối tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao theo Quy định.

Bên cạnh đó, Quy định còn đề cập đến việc niêm yết kết quả đánh giá, công bố cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật; kinh phí xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật.

4. Một số điểm mới về xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật

So với Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg, Quy định về xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật theo Quyết định số 619/QĐ-TTg có một số điểm mới cơ bản như sau:

Thứ nhất, Quy định đã thu hẹp đối tượng đánh giá, công nhận đạt chuẩn tiếp cận pháp luật. Thay vì đánh giá đối với cả 03 cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã Quy định chỉ tập trung đánh giá cấp xã để bảo đảm tính khả thi, thực chất vì các địa phương mới triển khai nhiệm vụ này, chưa có nhiều kinh nghiệm thực tiễn nên việc thực hiện rộng  rãi sẽ gây khó khăn, lúng túng . Bên cạnh đó, việc tập trung đánh giá cấp xã cũng để đảm bảo gắn kết, thống nhất với xây dựng, đánh giá xã đạt nông thôn mới.

Thứ hai, nâng cao vị trí, vai trò của xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật với thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh của địa phương, trong đó gắn kết giữa xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật với xây dựng nông thôn mới; đánh giá đô thị văn minh; đảng bộ, chính quyền cấp xã đạt tiêu chuẩn “trong sạch, vững mạnh” và thi đua, khen thưởng hằng năm của chính quyền cấp xã. Qua đó, bảo đảm việc đánh giá được toàn diện, thực chất.

Thứ ba, các tiêu chí, chỉ tiêu tiếp cận pháp luật được giảm bớt, tập trung vào các nội dung có liên quan đến tiếp cận pháp luật cho người dân. Theo đó, số lượng tiêu chí, chỉ tiêu đã giảm đáng kể, chỉ còn 05 tiêu chí (giảm 03 tiêu chí) và 25 chỉ tiêu (giảm 16 chỉ tiêu). Đặc biệt, để đảm bảo tính bền vững, ổn định của các tiêu chí tiếp cận pháp luật trong Quy định, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn, cụ thể hóa nội dung và điểm số các chỉ tiêu của các tiêu chí tiếp cận pháp luật.

Thứ tư, Không thực hiện phân loại cấp xã theo tiêu chí riêng như trước đây mà thống nhất tiêu chí phân loại cấp xã loại I, loại II, loại III để đánh giá cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật theo tiêu chí chung về phân loại đơn vị hành chính cấp xã nhằm khắc phục tính trùng lắp, chồng chéo trong phân loại cấp xã theo quy định của Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg.

Thứ năm, thẩm quyền xem xét, công nhận cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật là Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện thay vì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh như Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg để bảo đảm việc đánh giá, công nhận được thực chất hơn và nâng cao trách nhiệm, vai trò của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trong thực hiện nhiệm vụ này, đồng thời giảm sự quá tải công việc cho cấp tỉnh.

  Thứ sáu, việc đánh giá, công nhận cấp xã tiếp cận pháp luật được tiến hành hằng hàng năm căn cứ kết quả đạt được theo năm kinh tế - xã hội, tính từ ngày 01/01 đến hết ngày 31/12 của năm đánh giá, khác với thời hạn đánh giá theo Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg là tính từ ngày 01/07 của năm trước đến ngày 30/6 của năm đánh giá. Thời hạn công nhận cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật trước ngày 25/01 của năm liền kề sau năm đánh giá, còn theo Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg thời hạn này là nhân dịp Ngày Pháp luật Việt Nam 9/11 của năm đánh giá.

Thứ bảy, Quyết định số 619/QĐ-TTg quy định chỉ thành lập Hội đồng ở cấp huyện để tư vấn, giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp tổ chức việc đánh giá, công nhận đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, khác với Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg quy định thành lập Hội đồng ở cả 03 cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Quy định này xuất phát từ việc thu hẹp đối tượng đánh giá (chỉ còn cấp xã) và điều chỉnh thẩm quyền công nhận đạt chuẩn tiếp cận pháp luật cho cấp huyện.

Thứ tám, Quyết định số 619/QĐ-TTg quy định một điểm mới nữa là đánh giá sự hài lòng của tổ chức, cá nhân về chất lượng và thái độ phục vụ khi thực hiện thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền của cấp xã nhằm tăng tính khách quan, minh bạch trong đánh giá, công nhận, xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật.

 

Phần II

HƯỚNG DẪN NGHIỆP VỤ XÂY DỰNG

 XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN ĐẠT CHUẨN TIẾP CẬN PHÁP LUẬT

 

 

 
  Reserved: A- CÁC TIÊU CHÍ, CHỈ TIÊU TIẾP CẬN PHÁP LUẬT

 

 

 

 

            I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TIÊU CHÍ TIẾP CẬN PHÁP LUẬT

Ngày 08/5/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 619/QĐ-TTg ban hành Quy định về xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật (sau đây gọi là Quyết định số 619/QĐ-TTg). Quy định được ban hành trên cơ sở kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những nội dung còn hợp lý, khả thi trong Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg và bổ sung những quy định phù hợp với giai đoạn hiện nay. Theo Quy định, việc xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật được thực hiện dựa trên 05 tiêu chí thành phần và 25 chỉ tiêu với tổng số điểm là 100 điểm. Thực hiện nhiệm vụ được Thủ tướng Chính phủ giao tại Quyết định số  619/QĐ-TTg, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 07/2017/TT-BTP ngày 28/7/2017 quy định điểm số, hướng dẫn cách tính điểm các chỉ tiêu tiếp cận pháp luật, Hội đồng đánh giá tiếp cận pháp luật và một số nội dung về xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật (sau đây gọi là Thông tư số 07/2017/TT-BTP).

1. Các tiêu chí, chỉ tiêu tiếp cận pháp luật là tiêu chuẩn được sử dụng để đánh giá chất lượng xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, bảo đảm cho tổ chức, cá nhân tiếp cận pháp luật và là cơ sở để xem xét, công nhận cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật.

Xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật được hiểu là việc chính quyền cấp xã đáp ứng đủ các điều kiện trong việc thực hiện các tiêu chí, chỉ tiêu tiếp cận pháp luật nêu trên. Theo đó, cấp xã đủ điều kiện xét, công nhận đạt chuẩn tiếp cận pháp luật khi đáp ứng đầy đủ 04 điều kiện sau: (1) Không có tiêu chí nào dưới 50% số điểm tối đa; (2) Tổng số điểm của các tiêu chí tiếp cận pháp luật phải đạt tỷ lệ % nhất định tương ứng với từng đơn vị cấp xã loại I, loại II, loại III; (3) Kết quả đánh giá sự hài lòng của tổ chức, cá nhân đạt từ 80% tổng số điểm tối đa trở lên và (4) Trong năm không có cán bộ, công chức cấp xã bị xử lý kỷ luật bằng hình thức từ cảnh cáo trở lên do vi phạm pháp luật trong thực thi công vụ hoặc phải bồi thường thiệt hại do hành vi công vụ trái pháp luật gây ra.

2. Việc ban hành, áp dụng các tiêu chí, chỉ tiêu tiếp cận pháp luật nhằm hướng đến việc nâng cao nhận thức pháp luật, giáo dục ý thức tôn trọng, tuân thủ và chấp hành pháp luật; bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quyền được thông tin về pháp luật; kịp thời tháo gỡ mâu thuẫn, tranh chấp, vướng mắc, kiến nghị trong thi hành pháp luật trên địa bàn cấp xã; tổ chức và bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thi hành Hiến pháp, pháp luật, quản lý nhà nước và xã hội bằng pháp luật; nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức cấp xã trong thực thi công vụ, nâng cao năng lực quản lý nhà nước, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức đặc biệt tại chính quyền cấp cơ sở. Bên cạnh đó, việc áp dụng các tiêu chí, chỉ tiêu tiếp cận pháp luật còn để cải thiện điều kiện tiếp cận thông tin pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải ở cơ sở, giải quyết thủ tục hành chính, phát huy dân chủ ở cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân.



[1] Trang 126, 127, 176 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Văn phòng Trung ương Đảng, năm 2016.

[2] Trang 38, 169 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Văn phòng Trung ương Đảng, năm 2016.

[3] Nghị quyết số 61/2007/NQ-CP ngày 07/12/2007 của Chính phủ về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW; Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg ngày 17/01/2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ từ năm 2003 đến năm 2007 (có 04 Đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật kèm theo); Quyết định số 212/2004/QĐ-TTg ngày 16/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hành động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 đến năm 2010 (có 04 Đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật kèm theo); Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg ngày 12/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ từ năm 2008 đến năm 2012 (có 04 Đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật kèm theo); Quyết định số 2160/QĐ-TTg ngày 26/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án “Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh thiếu niên giai đoạn 2011 – 2015”; Quyết định số 409/QĐ-TTg ngày 09/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Kết luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) (có 07 Đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật kèm theo); Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg ngày 24/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở.

[4] Ban hành kèm theo Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ

[5] Ban hành kèm theo Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ

[6] Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn

[7] Trang 126, 127 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Văn phòng Trung ương Đảng, năm 2016.

[8] Trang 38, 169 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Văn phòng Trung ương Đảng, năm 2016.

 

* Chi tiết tải văn bản về TẠI ĐÂY!

 

Tổ biên tập PB GDPL  
Số lượt xem:3913
THÔNG BÁO
VĂN BẢN MỚI BAN HÀNH
THÔNG TIN CHUNG
HÌNH ẢNH
VIDEO
Hinh Anh
Hinh Anh
Trang chủ        |      Đăng nhập      
TRANG THÔNG TIN ĐIỆU TỬ HUYỆN SA THẦY - TỈNH KON TUM
Cơ quan chủ quản : Văn phòng HĐND-UBND huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum.
    Địa chỉ: Thôn 2 thị trấn Sa Thầy - Sa Thầy - Kon Tum; Điện thoại: 02603821103, Email: ubnd.st@kontum.gov.vn.
    Chịu trách nhiệm chính: Ông Phan Văn Chiểu - Chánh văn phòng HĐND - UBND huyện Sa Thầy.
    Bản quyền thuộc về Ủy ban Nhân dân huyện Sa Thầy.
Chung nhan Tin Nhiem Mang
Phát triển: TNC